- Quá trình thành lập và phát triển
Sở GDĐT Vĩnh Long được thành lập ngày 23/02/1976 với tên gọi lúc đầu là Ty Giáo dục tỉnh Cửu Long theo Quyết định số 15/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Cửu Long.
Từ 1985 đến năm 1991, Ty Giáo dục tỉnh Cửu Long đổi tên thành Sở GDĐT tỉnh Cửu Long. Năm 1992, khi tách tỉnh Cửu Long thành 02 tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh, Ủy nhân dân tỉnh Vĩnh Long đã ban hành Quyết định số 60/QĐ-UBT, ngày 09/5/1992, đổi tên Sở GDĐT tỉnh Cửu Long thành Sở GDĐT tỉnh Vĩnh Long.
- Cơ cấu tổ chức chính quyền và Đảng
+ Cơ cấu tổ chức chính quyền
Theo Quyết định số 21/2023/QĐ-UBND, ngày 11 tháng 8 năm 2023 của Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long “Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Vĩnh Long”, Sở GDĐT Vĩnh Long có 07 phòng chuyên môn, nghiệp vụ (Văn phòng, KH-TC, Thanh tra, Khảo thí và KĐCLGD, Tổ chức cán bộ, Giáo dục Mầm non - Tiểu học, Giáo dục Trung học - Giáo dục thường xuyên. Sở quản lý 34 trường THCS-THPT và THPT, 02 đơn vị trực thuộc) với tổng số 47 công chức và 04 nhân viên hợp đồng (01 lái xe, 02 bảo vệ, 01 nhân viên vệ sinh).
Tổng số công đoàn viên: 53, nữ: 22, tỷ lệ 41,5 %.
+ Cơ cấu tổ chức Đảng: Đảng bộ Sở GDĐT có 05 chi bộ trực thuộc, với 56 đảng viên. Ban Thường vụ có 03 đồng chí, Ban Chấp hành có 11 đồng chí.
- Về chức năng: Sở GDĐT tỉnh Vĩnh Long là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Vĩnh Long; thực hiện chức năng tham mưu, giúp UBND tỉnh quản lý nhà nước về GDĐT ở địa phương theo quy định của pháp luật và theo phân công hoặc ủy quyền của UBND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh.
- Giám đốc Sở Giáo dục Vĩnh Long qua các thời kỳ
(1). Ông Nguyễn Thanh Trà: 1975-1976
(2). Ông Đặng Văn Sáu: 1976-1982
(3). Ông Nguyễn Bá Hiều: 1982-1989
(4). Bà Đặng Huỳnh Mai: 1989-2001
(5). Bà Lê Thanh Xuân: 2001-2004
(6). Ông Nguyễn Văn Quang: 2004-2010
(7). Bà Trương Thị Bé Hai: 2011-2015
(8). Bà Nguyễn Thị Quyên Thanh: 2016-2020
(9). Bà Trương Thanh Nhuận: 2020 - nay
Từ khi thành lập đến nay, Sở GDĐT Vĩnh Long đã quản lý, chỉ đạo ngành Giáo dục từng bước phát triển đi lên vững chắc về quy mô trường lớp, cơ sở vật chất, đội ngũ, chất lượng giáo dục. Nếu như năm 1992, toàn tỉnh chỉ mới có 258 trường với tổng số lớp là 5.078, tổng số học sinh là 183.182 thì đến nay, mạng lưới trường, lớp học từ mầm non đến phổ thông đã được điều chỉnh, phát triển với 374 trường mầm non, phổ thông, 8 trung tâm GDNN-GDTX cơ bản đáp ứng được yêu cầu nhu cầu giảng dạy và học tập, nâng cao chất lượng giáo dục.
Giai đoạn đầu sau giải phóng miền Nam 30/4/1975, trường lớp ở các cấp học từng bước được xây dựng, tuy nhiên, giai đoạn này do thiếu vốn mà nhu cầu lại quá lớn nên các trường, đặc biệt là các trường ở vùng sâu đa số là phòng học tre lá và tình trạng học ba ca/ngày là phổ biến. Sau 1990, tỉnh huy động nguồn ngân sách trung ương, tỉnh, huyện, xã và nhân dân để tập trung đầu tư cho phát triển và xây dựng hệ thống trường, lớp, giải quyết tình trạng học ba ca do thiếu phòng. Đến năm 1995, đã cơ bản xóa tình trạng học ba ca, cơ bản xóa phòng học tre lá. Năm 2000, Vĩnh Long đã xóa phòng học tre, lá trên toàn tỉnh. Từ năm 2016, nhiệm vụ xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân (HĐND), UBND tỉnh dành kinh phí phù hợp để xây dựng mới, sửa chữa và nâng cấp cơ sở vật chất hiện có; đầu tư mua sắm, bổ sung trang thiết bị, đồ dùng dạy học theo hướng hướng chuẩn hóa; thực hiện sắp xếp lại mạng lưới trường lớp theo hướng đảm bảo điều kiện học tập thuận lợi nhất cho người học, ổn định, từng bước nâng cao chất lượng giáo dục, chuẩn bị các điều kiện triển khai thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Đến năm 2023, tỉnh có khoảng 7.326 phòng học các cấp mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, trong đó số phòng học kiên cố khoảng 7.118 phòng, đạt tỷ lệ kiên cố là 97%; số phòng công vụ cho giáo viên là 31 phòng với tỷ lệ kiên cố hóa là 100%. Có 100% trường học có nhà vệ sinh, nước sạch sử dụng.
Công tác xây dựng đội ngũ được sự quan tâm chỉ đạo quyết liệt từ Bộ GDĐT, Tỉnh ủy, UBND tỉnh và sự nỗ lực liên tục của toàn ngành. Từ thực trạng thiếu trầm trọng đội ngũ giáo viên sau năm 1975, ngành Giáo dục Vĩnh Long đã từng bước bố trí, đào tạo, tuyển dụng lại để tăng số lượng và song song đó là công tác chuẩn hóa, nâng cao chất lượng của đội ngũ giáo viên các cấp. Đến nay, định mức và cơ cấu đội ngũ từng bước đảm bảo theo hướng đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng[1]. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức nhà giáo được quan tâm thường xuyên từ các cấp quản lý đến cơ sở giáo dục. Công tác bồi dưỡng thường xuyên cho CBQL, GV được thực hiện theo quy định để tiếp tục nâng cao trình độ chuyên môn và năng lực sư phạm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục của từng giai đoạn phát triển[2].
Tỷ lệ huy động trẻ em trong độ tuổi đến trường đều tăng hàng năm và duy trì ổn định. Chất lượng giáo dục toàn diện, giáo dục mũi nhọn được duy trì, củng cố và ngày càng được nâng lên[3]; khoảng cách chênh lệch về chất lượng giáo dục giữa nông thôn và thành thị được dần thu hẹp. Công tác quản lý giáo dục được quan tâm, đổi mới về nội dung và phương thức, tác động tích cực đến việc nâng cao chất lượng giáo dục và hiệu quả đào tạo.
Những năm đầu, việc xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia được thực hiện theo các quy định của Bộ GDĐT, tiến hành chủ yếu bằng các cuộc đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm từ cơ sở thực tế và nhu cầu phát triển chất lượng giáo dục của từng địa phương. Trong mỗi năm học, Sở Giáo dục và Đào tạo tiếp tục đẩy mạnh công tác đầu tư xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia, xem đây là yêu cầu thiết yếu nhằm phát huy hết tiềm năng để nâng cao hiệu quả chất lượng giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông hiện nay và hướng tới tiêu chuẩn chất lượng cao phục vụ nguồn nhân lực cho xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ngành giáo dục Vĩnh Long đã được Bộ GDĐT công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học, chống mù chữ vào năm 1997; đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2005, được công nhận phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 6 tuổi vào năm 2016. Đến năm 2023, Bộ GDĐT đã công nhận tỉnh Vĩnh Long đạt chuẩn phổ cập giáo dục Tiểu học mức độ 3, đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 2, đạt chuẩn xóa mù chữ mức độ 2.
Công tác xã hội hóa giáo dục tiếp tục triển khai thuận lợi, đã tạo được điều kiện để thu hút các nguồn lực của xã hội, sự quan tâm của các tổ chức, cá nhân đầu tư cho sự phát triển giáo dục và đào tạo trên địa bàn.
Sau 50 năm củng cố, xây dựng và phát triển, về cơ bản, giáo dục Vĩnh Long đã phát triển về hệ thống đầy đủ tất cả các cấp học, ngành học từ mẫu giáo đến trung học phổ thông, giáo dục thường xuyên. Qui mô, số lượng trường, lớp, giáo viên ngày càng được củng cố và nâng cao về số lượng và chất lượng. Chất lượng giáo dục dần được cải thiện và bước đầu có tính ổn định. Với những thành tích đã đạt được, ngành Giáo dục Vĩnh Long vinh dự được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhì theo Quyết định số 152.KT/CT, ngày 29/4/1999; Huân chương Lao động hạng Nhất theo Quyết định số 109/QĐ-CTN, ngày 02/02/2024./.
[1]Tính đến ngày 31/5/2024, toàn tỉnh có 14.773 CBQL, GV, NV kể cả hợp đồng và đội ngũ tại các trường dân lập, tư thục.
[2] CBQL và GV đạt chuẩn đào tạo theo Luật Giáo dục 2019 là 12.093/12.471 người, đạt tỷ lệ 96,97% (tăng 1,67 % so với năm học 2022-2023); CBQL và GV trên chuẩn là 3.215/12.471 người, tỷ lệ 25,78%, đáp ứng yêu cầu giảng dạy, giáo dục tại các cơ sở giáo dục.
[3] Năm học 1982-1983 tỉ lệ tốt nghiệp THCS đạt 83%, tốt nghiệp THPT đạt 71,73%. Đến năm học 2023-2024, tỷ lệ tốt nghiệp trung học cơ sở 99,99%; kết quả thi TN THPT năm 2024 đạt 99,68%.
.